Thứ Sáu, 16 tháng 8, 2013

Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về văn hóa: Văn hóa soi đường cho quốc dân đi - Bài 5: cùng đọc lại Cần chính sách văn hóa mới ăn nhập với thời kỳ mới.

Trong câu chuyện bàn bạc với chúng tôi, GS Đỗ Quang Hưng có những quan điểm đề xuất cụ thể như công tác quản lý văn hóa đã đến lúc cần có cách nhìn mới mẻ hơn khi đấu dùng các ý kiến có tính nguyên tắc như "Đảng lãnh đạo, quốc gia quản lý, văn hóa là mặt trận…”

Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về văn hóa: Văn hóa soi đường cho quốc dân đi - Bài 5: Cần chính sách văn hóa mới phù hợp với thời kỳ mới

Tôi nói ví dụ như tiếng nói là đặc trưng cơ bản của bản sắc văn hóa một cộng đồng, một quốc gia. Cẩm Thúy Nhà sử học Dương Trung Quốc: Bản sắc Việt Nam là khả năng thích nghi Nghị quyết Trung ương 5 (khóa 8) đã xác lập và càng ngày càng xác định được vai trò của văn hóa đối với đời sống và hội nhập.

Chúng ta bền chí những mục tiêu của mình nhưng uyển chuyển trong quá trình hội nhập với thế giới: Học cái gì và cái gì phải tranh đấu ngăn chặn. Trong quá trình hội nhập, có rất nhiều yếu tố của thế giới hiện đại, chúng ta không đánh giá là xấu hay tốt, nhưng không hiệp với truyền thống Việt Nam.

Việc "giữ bản sắc” (ở ta thì gọi là "đằm thắm”) hiện tại đã có cái nhìn khác. Thứ hai là kinh tế thị trường chưa thực sự tác động mạnh mẽ như bây giờ. Đấy là cái khôn ngoan của ông cha chúng ta, bản sắc văn hóa của chúng ta.

Một chiến lược phát triển văn hóa hợp lý vào thời khắc này trong sự thay đổi của thế giới cả về quan niệm và lý luận trong nhiều vấn đề của đời sống không phải là việc dễ. Chữ Hán chỉ còn là một công cụ.

Đây cũng là quan điểm của GS Lê Văn Lan. Trước tiên, vào thời khắc quyết nghị ra đời, công cuộc hội nhập mới phát động. Một tên gọi có nhẽ bắt kịp với nhu cầu của tầng lớp hiện nay… Không kiến nghị nên có một quyết nghị mới, nhưng đề nghị phải bổ sung một chiến lược văn hóa tầm nhìn đến những năm 2020 – 2030, GS Đỗ Quang Hưng cũng cho rằng những quan điểm lý luận của Nghị quyết Trung ương 5 chưa đầy đủ và nếu còn tiếp tục được sử dụng trong thời kỳ mới phải bổ sung những lý luận mới.

Tin vào bản lĩnh văn hóa Việt Nam, như lời KTS Hoàng Đạo Kính, người Việt có thể khoan thai tiến tới văn minh cùng nhân loại. Hiện chúng ta đứng trước một thử thách rất lớn, thử thách của sự phát triển buộc chúng ta phải hội nhập với thế giới càng sâu càng tốt, nhất là về văn minh vật chất.

Lời kết Ở phòng khách nhà của nhạc sĩ Phạm Tuyên vẫn còn treo câu nói của cụ Phạm Quỳnh hồi đầu thế kỷ 20: "Thổ nạp Đông – Tây”. Khái niệm bản sắc văn hóa dân tộc có thể nảy sinh rất nhiều cách nhận thức khác nhau, nên phải đảm bảo môi trường dân chủ thì mới tìm ra sự nhận thức đúng, hướng tới sự đồng thuận. Văn Miếu hồi đầu thế kỷ 20 Có thể bổ sung hoặc ra một quyết nghị mới GS Ngô Đức Thịnh cho rằng: Nên làm một quyết nghị mới trên cơ sở kế thừa cái cũ vì quyết nghị Trung ương 5 (khóa 8) đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của mình.

Nhưng quan trọng hơn, để cái bất biến ấy nó phát triển liên tiếp và bền vững, để đi đến mục tiêu thì rõ ràng chúng ta phải đối phó với những thay đổi rất to lớn của giang san, cũng như tác động của thời đại này.

Chính chữ Hán ấy viết lên áng văn "Nam quốc sơn hà Nam đế cư”. Vì khi người Việt Nam đi sang Pháp tiếp thụ nền văn minh Pháp tiếp nhận cả những giá trị nhân văn của nhân loại, thí dụ Cụ Hồ hay Cụ Phan Châu Trinh ban đầu đi sang Pháp là bị hấp dẫn bởi Tự do – Bình đẳng – Bác ái. Như vậy có thể thay mực cũ bằng: "Xây dựng một nền văn hóa Việt Nam hiện đại và giàu bản sắc”.

CT (ghi). Nó sẽ đi vào xu hướng chung của thế giới hiện đang gọi thời khắc này là thời kỳ đương đại và hậu hiện đại.

Hơn thế nữa, nhiều người nghiên cứu văn hóa cũng cho rằng, khi nói "mặn mà” ta được mặt chính trị trong văn hóa, nhưng vô tình lại coi nhẹ tính đương đại (modernity). GS Đỗ Quang Hưng cho rằng: Việc quyết nghị quan tâm đến "hệ giá trị chuẩn” của người Việt Nam là hướng đúng (kể cả việc coi xây dựng nhân cách là cốt lõi, trọng tâm của các hoạt động văn hóa) nhưng chúng ta vẫn chưa đủ luận lý để giảng giải được, nói đúng hơn là chấp thuận những logic tiên quyết như con người, cá thể, cá nhân luận… vốn là những vấn đề vẫn còn ách tắc về nhận thức lý luận.

Đấy chính là bản sắc của Việt Nam, là khả năng thích nghi hấp thụ làm phong phú thêm cho văn hóa của dân tộc mình, phục vụ cho đích của dân tộc mình.

Nhưng, các nhà nghiên cứu yêu cầu, bất kể là bổ sung hay làm một quyết nghị mới thì điều cần phải làm một cách đúng mức và phải coi như vấn đề quan trọng số một của chính sách về văn hóa là vấn đề con người và lối sống.

Giờ, theo GS Hưng, cấu trúc nền văn hóa, các loại hình văn hóa không chỉ đơn tuyến là văn hóa chính thống và văn hóa bình dân mà còn xuất hiện hàng loạt các khái niệm khác mà chính sách văn hóa cần giải quyết như "tính nhân loại” (hiện đã quá rõ); những sức mạnh mới của "quyền lực văn hóa” (chả hạn quyền lực mềm về văn hóa)… "Ở nước ta trong công tác văn hóa có những lĩnh vực có không ít kinh nghiệm và thành quả nhưng lại có những bước lùi quan yếu trong thực tiễn” - GS Đỗ Quang Hưng than phiền.

Bởi đó là gốc của văn hóa. Giờ đến đầu thế kỷ 21, trong xu thế hội nhập này, quá trình giao lưu, tiếp thu thế giới càng là thế tất. Hẳn nhiên mối quan hệ giữa văn minh và vật chất rất khăng khít với nhau và rất dễ tác động với nhau.

Quan điểm văn hóa của Liên Hợp Quốc (tính thống nhất trong đa dạng về văn hóa) khuyến khích vấn đề gìn giữ bản sắc… Nhưng bây giờ, theo tôi tư duy văn hóa của nhân loại đã có những đòi hỏi mới. Văn hóa Việt Nam vẫn đang "soi đường” cho quốc dân đi, phát triển cùng thế giới, hiện đại và bản sắc.

Tự thân truyền thống đã là phát triển, là một quá trình động chứ không tĩnh.

(GS Đỗ Quang Hưng) Xây dựng nhân cách là mấu chốt của văn hóa cố nhiên, trong một quyết nghị của Đảng chẳng thể và không nên đưa ra quá nhiều vấn đề, để tránh tình trạng cái gì cũng nêu ra và cái gì cũng làm không đến nơi, đến chốn.

GS Ngô Đức Thịnh nhấn mạnh: Nói như thế đúng hơn và thực thụ chữ "đương đại” có nội hàm khoa học của nó. Tỉ dụ, chữ "tiên tiến” nên thay bằng từ "đương đại”. Ta tiếp cận rất sớm với nền văn minh Trung Hoa hay văn minh Pháp trong hoàn cảnh rất hà khắc là cuộc cưỡng dâm đô hộ chính trị, những người Việt Nam vẫn biết cách thích ứng đến mức độ người Pháp phải đưa ra một đại quát: "con đường đi sang Pháp là con đường chống Pháp”.

Bản sắc không xơ cứng, không cực đoan. Nhưng rất cần một chính sách văn hóa kế thừa và bổ sung kịp thời vào lúc này để đáp ứng với đòi hỏi của đất nước thời kỳ hội nhập, để giáo dục và hình thành một lớp người Việt Nam mới đủ bản lĩnh bước đi trong thời kỳ hội nhập. Chủ toạ Hồ Chí Minh đã có lúc định nghĩa văn hóa Việt Nam là sự phối hợp giữa Đông và Tây, do đặc điểm địa lý và tình cảnh lịch sử.

Trong quá khứ xa xưa có lúc chúng ta không còn chữ viết riêng của mình, chúng ta ưng ý chữ Hán làm quốc tự nhưng chính tiên tổ chúng ta bằng cách vẫn giữ ngôn ngữ của mình, nhờ thế chúng ta phá hoang được chữ Hán vốn là của văn minh phương Bắc nhưng là sự bổ sung, hay nói đúng hơn là dụng cụ rất bổ ích cho dân tộc mình.

Như vậy trong trường hợp này không phải chữ Hán là bản sắc mà áp dụng chữ Hán như thế nào, vận dụng thành tựu của chữ Hán như thế nào, phục vụ cho đích sáng tạo cái mới, là bản sắc của riêng ta. Quản lý văn hóa: "…Ứng vạn biến” Lúng túng, thụ động, chạy theo đời sống văn hóa là thực tại có thật trong công tác quản lý văn hóa thời kì qua. Cộng đồng. Vì vậy đích ấy bên cạnh định hướng phải được miêu tả một cách khôn xiết thực tế để tác động trực tiếp vào từng con người, là những người vừa hưởng thụ, vừa sáng tạo văn hóa, trong đó có cả việc bảo tồn.

Cùng với đó là trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng đang khôn cùng phức tạp, rất nhiều lợi ích khác nhau lồng ghép vào nhau từ đạo tới chính trị kinh tế…Bởi vậy, theo nhà sử học Dương Trung Quốc: Giữa đường hướng chiến lược và sự thích ứng đòi hỏi chúng ta phải thực hành nguyên lý của Cụ Hồ là "Dĩ bất biến ứng vạn biến”.

Do vậy định hướng bảo tàng và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thụ văn hóa tiên tiến thế giới đó là một bước tiến, nó sẽ đứng vững trong một thời kì lâu dài.

Âm Hán – Việt trở nên di sản khôn xiết phong phú đóng góp cho tiếng nói tiếng Việt và vì chúng ta giữ được ngôn ngữ nên khi chúng ta tìm được một công cụ khác là chữ La tinh thì nó chóng vánh trở thành thứ Quốc ngữ hiện đại cho đến bây giờ.

Điều này biểu lộ rõ ở các lĩnh vực như văn hóa các dân tộc thiểu số hiện giờ, văn hóa đạo - một vấn đề chỉ được mở ra theo những hướng của "thị trường tôn giáo” hay việc giải quyết mối quan hệ nội - ngoại trong giao lưu văn hóa quốc tế cũng vậy. Trong tác động, bên cạnh những nhân tố tích cực có thể phát sinh những yếu tố ta gọi là tiêu cực vì nó không ăn nhập với bản sắc truyền thống của người Việt Nam.

Trong quá trình ấy chúng ta đã cố sáng tạo, tỉ dụ chữ Nôm là một cố kỉnh sáng tạo, đạt tới mức nào đó, tuy rằng chưa hoàn thiện.

Bản sắc không biểu lộ ở bên ngoài hình thức mà biểu đạt ở việc giữ được tâm hồn ý thức và nói cho cùng là giữ được ích lợi nhà nước, lợi. Chẳng hạn, với thế giới, hiện thời, kể cả những nước lớn như ở Tây Âu và Bắc Mỹ, không còn là vấn đề "giữ bản sắc” mà là "cú sốc văn hóa” (Choc des cultures) tác động đến mọi quốc gia, mọi tộc người trong xu trào toàn cầu hóa về văn hóa.

Kiến nghị về một Nghị quyết mới, GS Thịnh băn khoăn về tên gọi: Không nên giữ mức "xây dựng một nền văn hóa tiên tiến thắm thiết bản sắc dân tộc” mà nên đổi thay.

Và sự phát triển của khoa học - công nghệ nhất là truyền thông không đặt ra những thách đố to lớn như hiện nay. Do đây là một văn bản quyết nghị nên cần dùng những từ ngữ đi thẳng vào vấn đề.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét